Y học phương đông chẩn bệnh thế nào

Hiện tại ở Việt Nam và các nước phương Đông tồn tại hai nền y học, có cách hình thành và phát triển khác nhau nhưng đều chung một mục tiêu là bảo vệ con người.

Y học phương Tây, hay y học hiện đại hình thành từ thực nghiệm, phân tích, chứng minh. Thí dụ mổ phanh ra xem có những cơ quan gì, rồi mô tả vị trí, kích thước các cơ quan đó: Hình thành bộ môn giải phẫu. Dùng thực nghiệm để tìm hiểu chức năng từng cơ quan khi nó hoạt động bình thường hay khi bị bệnh. Từ đó hình thành bộ môn sinh lý thường và sinh lý bệnh.
Khi bị bệnh, nhận xét các triệu chứng thể hiện ra ngoài như ho, sốt, khó thở, vàng da.v.v… Rồi lại mổ để phân tích tổn thương các cơ quan xem tim, gan, phổi… khác với bình thường thế nào từ đó hình thành bộ môn giải phẫu bệnh. Dùng vị thuốc diệt con ký sinh trùng, diệt con vi trùng đều có làm thực nghiệm xem thuốc đó tác động tới ký sinh trùng (giun, sán) hay vi trùng như thế nào. Từ đó mới sản sinh ra thuốc, hình thành bộ môn dược lý. Cũng qua thực nghiệm, người ta giải thích tại sao bị bệnh gọi là cơ chế bệnh sinh.

Lúc đầu còn sơ khai, sau này khoa học phát triển, y học được thừa hưởng cũng phát triển theo con người, khám phá sâu về con người, biết sâu về bệnh tật, tìm ra nhiều cách chữa, cứu chữa được nhiều bệnh hiểm nghèo. Đó là Y học hiện đại của các nước phương Tây (Tây bán cầu) hay còn gọi là Tây y. Có trường lớp, có chương trình để đào tạo thầy thuốc.

Y học phương Đông hình thành từ thực tiễn cuộc sống. Con người phải sống, lao động, chịu tác động của môi trường thiên nhiên như không khí, đất, thực phẩm, nước. Có lẽ lúc đầu từ lao động nhiều, mệt mỏi, con người biết vươn vai, xoa xoa bóp bóp thấy đỡ mệt, đỡ đau. Khi đói cần tìm lá, quả, củ để ăn. Có thứ ăn lăn ra chết, có thứ ăn vào bị nôn nao, có thứ ăn vào thấy khoẻ và lớn lên. Qua hàng ngàn đời truyền lại và tổng kết thứ gì tốt, thứ gì độc, thứ gì ăn hết đau, thứ gì uống hết sốt.v.v… Cứ như thế, đời trước truyền cho đời sau để duy trì và phát triển nòi giống. Khi phát hiện ra lửa, con người biết nấu chín, dần biết chế biến thức ăn, uống, chế biến thuốc, bảo vệ nòi giống. Cũng từ thực tiễn, nhận xét thấy lạnh sinh bệnh gì, nóng sinh bệnh gì, ẩm thấp ảnh hưởng đến sức khoẻ ra sao. Từ tổng kết tác động của thiên nhiên, của ăn uống, mặt trái của lao động và thực phẩm mà phát hiện ra các nguyên nhân gây bệnh…

Khi con người có chữ viết, đã phát hiện ra các học thuyết: Âm dương – Ngũ hành, Kinh dịch… thì y học phương Đông có lý luận. Vậy là hình thành Y họcphương Đông. Y học phương Đông được một số người tự tìm tòi trong cuộc sống, khám chữa bệnh, tự chế thuốc gọi là ông bà lang vườn. Có người được học giỏi Nho – Y – Lý số rồi khám chữa bệnh, hình thành các lương y. Khoảng 100 năm gần đây, những lương y mở trường đào tạo và cũng đã đào tạo các lương y thực thụ. Vậy ở xã hội ta có hai loại: một là người được đào tạo có lý luận của y học phương Đông, một loại từ lượm lặt kinh nghiệm, từ gia truyền cũng gọi là thầy thuốc, là lương y. Do vậy, đã đến lúc các nhà quản lý nên tìm các tên thích hợp cho các đối tượng trên kẻo xã hội dễ bị hiểu lầm, nhất là thời buổi kinh tế thị trường như ngày nay. (Trong từ điển: Lương y được định nghĩa là thầy thuốc giỏi, chứ không phải ai, cứ chữa bệnh gọi là lương y). Y lý của Đông y quá sâu sắc, nhất là khi kết hợp với Kinh Dịch, thì số người hiểu để vận dụng hành nghề có thể nói chỉ đếm trên đầu ngón tay dám cho mình là người hiểu biết y lý. Cách khám bệnh là một ví dụ.

Y học phương Đông khám bệnh như thế nào?

Khám theo trình tự: vọng, văn, vấn, thiết. Vọng là nhìn, là quan sát người đến khám bệnh, dáng đi, đứng có gù, vẹo, lệch, có gì bất thường rồi nhận xét thần và sắc của người bệnh. U tối, sáng sủa, đau, buồn, bực tức, lo nghĩ… thần của vẻ mặt sẽ chỉ ra nguyên nhân và bệnh ở đâu. Sắc là màu sắc của da, niêm mạc sáng, đỏ, đen, vàng … mỗi màu là một bệnh. Xem răng, môi, lưỡi… Nhìn lưỡi nhận xét tổng thể lưỡi dày, mỏng, phía trên lưỡi có lớp rêu trắng hay vàng, đen, có dày hay mỏng. Dìa lưỡi có ngấn răng là bệu…. Sau đó xem đầu lưỡi, giữa lưỡi, cuống lưỡi có gì bất thường. Dìa lưỡi bên phải khác dìa lưỡi bên trái… Tất cả các nhận xét trên cho thầy thuốc nhận định bệnh ở nông hay sâu, bệnh ở hàn hay nhiệt, bệnh ở cơ quan tạng phủ nào: tâm, can, tỳ, phế, thận. Ẩm thấp hay khô táo. Bệnh khó hay dễ chữa. Cũng từ nhận xét qua nhìn lưỡi, gợi ý nên chọn thức gì, phối hợp thuốc ra sao.

Vì các triệu chứng nhận xét của thầy thuốc và lời khai của bệnh nhân (hay gia đình) thường mang tính chủ quan. Vì vậy, người xưa yêu cầu phải khám rất tỷ mỉ, phải đủ bốn bước, rồi mới được kết luận. Phải so sánh bốn nhóm triệu chứng qua bốn bước, triệu chứng nào phù hợp, triệu chứng nào giả. Sau vọng thần sắc là vọng bộ phận bị bệnh. Thí dụ, xem ngực, bụng, đầu, tóc, móng… xem màu sắc chất thải như đờm, nước tiểu, phân, kinh nguyệt.

Văn là nghe, ngửi. Nghe tiếng nói, tiếng ho, to hay nhỏ, tiếng rõ hay yếu; Ngửi mùi hơi thở hôi, chua; Mùi chất thải chua, tanh, hôi…

Vấn chẩn là hỏi bệnh. Hỏi nguyên nhân đi khám bệnh: do đau, do sốt, do nôn, do mệt mỏi, do mất ngủ, do ăn uống kém, do gầy sút… Thời gian bị bệnh bao lâu ? Các triệu chứng trên có liên quan đến nóng, lạnh, ẩm thấp (thí dụ: lạnh ho tăng liên quan đến ăn, uống). Cần hỏi các triệu chứng kèm theo. Thí dụ ho có sốt không, ho có khó thở, có táo bón? hoặc đau vai có ho, có hạn chế vận động .v.v…

Thiết là sờ. Sờ da xem lạnh hay nóng, ẩm hay khô, sờ bộ phận bị bệnh: bụng, ngực… Sờ ấn các huyệt vị, đường kinh xem có gì bất thường, cuối cùng mới bắt mạch. Người bệnh và thầy thuốc phải ngồi thoải mái, có bàn, có gối kê tay. Khi khám, thầy thuốc phải bình tĩnh… Nhận xét 6 bộ mạch ở hai tay liên quan đến các tạng phủ. Xem tính chất của mạch: phù, trầm, căng, nhũn, đều hay loạn… Có 36 loại mạch, mỗi mạch ứng với một bệnh và bệnh thuộc tạng phủ nào.

Sau khi qua bốn bước khám bệnh (vọng, văn, vấn, thiết), thày thuốc tập hợp và suy luận để đưa ra kết luận: Bệnh còn ở nông hay đã sâu vào tạng phủ, bệnh thuộc hàn hay nhiệt, bệnh mắc đã lâu hay mới, sức người bệnh còn khoẻ hay yếu, cuối cùng bệnh thuộc loại âm hay dương. Bệnh ở tạng phủ nào? (Tâm, can, tỳ, phế, thận…).

TÌm nguyên nhân gây ra bệnh :

Thời tiết, khí hậu trái thường. Do trạng thái tâm lý, tình cảm căng thẳng kéo dài. Do trùng, thú vật cắn hay do chấn thương, chiến thương. Do ăn uống no đói thất thường hay do sinh hoạt bừa bãi.

Từ đó thầy thuốc mới gợi ý cách phòng bệnh và cách chữa cho người bệnh. Chữa bằng thuốc hay không dùng thuốc (châm cứu, xoa bóp, luyện tập, hoặc phối hợp cả hai).

PGS.TS Dương Trọng Hiếu

About Thuocnam.net